Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là loại hình bảo hiểm mà tất cả các cá nhân, tổ chức sở hữu xe cơ giới tại Việt Nam đều phải tham gia theo quy định của nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông do xe cơ giới gây ra, mặt khác giúp giảm thiểu gánh nặng tài chính cho chủ xe cơ giới trước những rủi ro bất ngờ.
Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới giúp giảm thiểu rủi ro khi tham gia giao thông. Ảnh: T.L
Nâng mức bồi thường bảo hiểm xe cơ giới lên 150 triệu đồng/người/vụ
Chính phủ ban hành Nghị định 67/2023/NĐ-CP, ngày 06/9/2023 quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng. Nghị định quy định đối tượng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, hành khách theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, mô tô, xe gắn máy vẫn là nguồn phương tiện vận tải cơ giới chủ yếu và là nguồn gây tai nạn lớn nhất tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia tại Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện phong trào thi đua bảo đảm trật tự, an toàn giao thông giai đoạn 2016 – 2020, tổng số xe máy chiếm 63,48% nguyên nhân gây ra tai nạn.
Tại Nghị định số 67/2023/NĐ-CP, mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người đã được nâng lên đáng kể (nâng từ 100 triệu đồng/1người/1vụ tai nạn lên 150 triệu đồng/ 1người/1vụ tai nạn). Cụ thể như: Với dòng xe máy dưới 50cc: Phí bảo hiểm là 55.000 đồng, khi xảy ra tai nạn gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người thứ ba, số tiền bồi thường tối đa cho một người là 150 triệu đồng, gấp 2.727 lần so với số phí bảo hiểm.
Với dòng xe không kinh doanh vận tải 4 chỗ: Phí bảo hiểm là 437.000 đồng, khi xảy ra tai nạn gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người thứ ba, số tiền bồi thường tối đa cho môt người là 150 triệu đồng, gấp 343 lần so với số phí bảo hiểm.
Với dòng xe khách dưới 6 chỗ: Phí bảo hiểm là 756.000 đồng, khi xảy ra tai nạn gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người thứ ba, số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho một người trong một vụ tai nạn là 150 triệu đồng, gấp 198 lần so với số phí bảo hiểm.
Về mức bồi thường được quy định tại Nghị định số 67/2023/NĐ-CP được tính bằng tỷ lệ tổn thương nhân với giới hạn trách nhiệm bảo hiểm (Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng do xe cơ giới gây ra là 150 triệu đồng cho một người trong một vụ tai nạn), để thuận tiện cho việc tính toán thanh toán.
Có thể thấy, thực tế đa số chủ xe mô tô, xe máy có thu nhập không cao, với mức phí bảo hiểm 55.000 đồng/năm, khi không may gây tai nạn đối với người thứ ba về sức khỏe, tính mạng sẽ được bảo hiểm chi trả tối đa 150 triệu đồng; về tài sản sẽ được bảo hiểm chi trả tối đa 50 triệu đồng.
Đặc biệt, với quy định tạm ứng bồi thường bảo hiểm lên đến 105 triệu đồng trong vòng 3 ngày kể từ khi nhận được thông báo tai nạn sẽ cung cấp nguồn tài chính nhanh chóng, kịp thời cho chủ xe máy hỗ trợ nạn nhân, gia đình nạn nhân khắc phục thiệt hại.
Ngoài ra, trường hợp không xác định được xe gây tai nạn, xe không tham gia bảo hiểm, không thuộc phạm vi bảo hiểm và các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm sẽ được Quỹ Bảo hiểm xe cơ giới chi hỗ trợ nhân đạo đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng lên đến 45 triệu đồng.
Thủ tục bồi thường đơn giản, thuận tiện
Tại Nghị định số 67/2023/NĐ-CP, thủ tục bồi thường bảo hiểm đã được quy định đơn giản, vừa đảm bảo chi trả bảo hiểm nhanh gọn để vừa hỗ trợ người bị tai nạn, vừa đảm bảo hồ sơ, tài liệu, chứng từ hợp lệ về doanh nghiệp bảo hiểm hạch toán chi phí.
Về cơ bản, chủ xe cơ giới chỉ cần cung cấp tài liệu như: Văn bản yêu cầu bồi thường; Tài liệu liên quan đến xe cơ giới, người lái xe; Trường hợp thiệt hại về người thì cung cấp hồ sơ bệnh án xác định tổn thương để làm căn cứ trả tiền. Trường hợp tử vong mới cần hồ sơ của cơ quan Công an; Trường hợp thiệt hại về tài sản thì cung cấp tài liệu chứng minh thiệt hại về tài sản để làm căn cứ bồi thường (hóa đơn sửa chữa, thay thế…).
Về phía doanh nghiệp bảo hiểm, Nghị định số 67/2023/NĐ-CP quy định: các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải thiết lập, duy trì các đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, hướng dẫn, giải đáp cho bên mua bảo hiểm các vấn đề liên quan tới bảo hiểm bắt buộc.
Bên cạnh đó, Nghị định số 67/2023/NĐ-CP cũng quy định về viêc số hóa đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Theo đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện ghi âm cuộc gọi đến đường dây nóng, cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử; cung cấp, cập nhật thông tin vào cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới…
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các nước đều áp dụng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, mô tô, xe máy và thậm chí có quốc gia áp dụng cả với xe đạp điện, bao gồm cả các nước phát triển có số lượng xe mô tô, xe máy thấp như Mỹ, EU hay các nước đang phát triển có số lượng lớn xe mô tô, xe máy tham gia giao thông như Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan…
Được biết, trong thời gian tới, cơ quan quản lý về bảo hiểm sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật./.