Dự thảo Luật Hàng hải Việt Nam (sửa đổi) đang được lấy ý
kiến rộng rãi. Thông qua Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (AVI), các DN bảo hiểm phi
nhân thọ đề xuất sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng.
Phân loại rõ hợp đồng vận chuyển
Trong công văn góp ý gửi Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Tư pháp, AVI
đề nghị bổ sung các tiêu chí cụ thể nhằm phân định rõ đối với hợp đồng vận
chuyển theo chứng từ vận chuyển và hợp đồng vận chuyển theo chuyến.
Bởi lẽ, các tiêu chí quy định để phân loại hợp đồng vận chuyển
trong Luật Hàng hải 2005 chưa đầy đủ, nên việc phân định giữa hai loại hợp đồng
nêu trên gặp khó khăn.
“Trường hợp các bên ký kết hợp đồng vận chuyển, các nội dung về
tàu biển đã được chỉ định, hải trình, ngày khởi hành, chủng loại, số lượng,
kích thước hoặc trọng lượng của hàng hoá được quy định cụ thể, nhưng nội dung
người vận chuyển dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu
không được quy định cụ thể thì có được coi là hợp đồng vận chuyển theo chuyến
hay không?”, ông Phùng Đắc Lộc, Tổng thư ký AVI bày tỏ băn khoăn.
Trong khi đó, theo các DN bảo hiểm phi nhân thọ, việc phân định
hợp đồng vận chuyển có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong các trường hợp có
liên quan đến việc giải quyết tranh chấp phát sinh, vì đây là căn cứ chủ yếu để
xác định thời hiệu khởi kiện, là điều kiện tiên quyết để bên có quyền lợi bị
xâm phạm thực hiện quyền khởi kiện.
Điều 97 Luật Hàng hải 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện về hư
hỏng, mất mát hàng hoá vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là 1 năm, kể từ ngày
trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng”. Điều 118 quy định:
“Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến là 2
năm, kể từ ngày người khiếu nại biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm
phạm”.
Trong thực tế, việc phân định hợp đồng vận
chuyển thuộc loại nào trong số 2 loại hợp đồng trên hoàn toàn phụ thuộc vào
quan điểm của người và cơ quan tài phán có thẩm quyền. Vì thế, cùng một hợp
đồng, nhưng có cơ quan tài phán xác định là hợp đồng vận chuyển theo chuyến,
nhưng có trường hợp lại xác định là hợp đồng vận chuyển theo chứng từ. Dẫn đến
việc không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các bên. Bởi vậy, các DN bảo hiểm cũng đề nghị bổ sung các tiêu chí cụ
thể nhằm phân định rõ đối với hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển và
hợp đồng vận chuyển theo chuyến.
Bổ sung bảo hiểm vận chuyển bằng đường ống
Liên quan đến quy định về mở rộng điều kiện bảo hiểm, Dự thảo sửa
đổi, bổ sung khoản 2 Điều 224, Luật Hàng hải 2005 quy định: “Hợp đồng bảo hiểm
hàng hải có thể mở rộng theo những điều kiện cụ thể hoặc theo tập quán thương
mại để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm đối với những tổn thất xảy ra
trên đường thủy nội địa, đường bộ, đường sắt hoặc đường hàng không thuộc cùng
một hành trình đường biển”.
Theo các DN bảo hiểm, Dự thảo đã không điều chỉnh một hình thức
vận chuyển đã tồn tại lâu đời trên thế giới và các DN Việt Nam cũng đã triển
khai thực hiện, đó là hình thức vận chuyển bằng đường ống.
Chia sẻ với ĐTCK, các DN bảo hiểm phi nhân thọ cho rằng, trong bối
cảnh Việt Nam là nước khai thác, xuất khẩu và nhập khẩu dầu thô cùng các sản
phẩm từ dầu thô, ngành lọc hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế,
thì hình thức vận chuyển bằng đường ống có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết đối
với ngành vận tải biển. Do đó, nhu cầu mở rộng điều kiện bảo hiểm các quyền lợi
đối với những tổn thất xảy ra trên đường ống vận chuyển là thiết thực.
“Mặc dù pháp luật hiện hành có chưa có các quy định cụ thể về điều
kiện kinh doanh vận chuyển bằng đường ống, nhưng Dự thảo Luật Hàng hải (sửa
đổi) không quy định mở rộng điều kiện bảo hiểm đối với hình thức vận chuyển này
là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn ngành vận tải biển”, lãnh đạo một DN bảo
hiểm nói và đề nghị Dự thảo sửa đổi theo hướng: hợp đồng bảo hiểm hàng hải có
thể mở rộng theo những điều kiện cụ thể, hoặc theo tập quán thương mại, để bảo
vệ quyền lợi của người được bảo hiểm đối với những tổn thất xảy ra trên đường
thủy nội địa, đường bộ, đường sắt, đường hàng không, hoặc trên đường vận chuyển
bằng đường ống thuộc cùng một hành trình đường biển.
Ngoài ra, theo Luật Hàng hải hiện hành, giá trị bảo hiểm của tàu
biển được xác định ngay tại thời điểm bắt đầu bảo hiểm. Tuy nhiên, do tàu biển
là đối tượng bảo hiểm đặc thù, có giá trị lớn hoặc rất lớn, việc xác định tổng
giá trị của tàu biển tại thời điểm bắt đầu bảo hiểm trong nhiều trường hợp gặp
khó khăn và tốn kém, phát sinh chi phí không nhỏ (kiểm tra, giám định, định
giá), mà nếu thực hiện sẽ không thể bảo đảm hiệu quả kinh tế cho DN bảo hiểm
khi mức phí bảo hiểm có thể thu được là không thể bù đắp. Nếu tăng mức phí bảo
hiểm đến mức có thể bù đắp được chi phí này thì bên mua bảo hiểm từ chối giao
kết hợp đồng bảo hiểm.
Do đó, theo các DN bảo
hiểm, nên sửa đổi quy định trên như sau: “Giá trị bảo hiểm của tàu biển là tổng
giá trị của tàu biển vào thời điểm xảy ra tổn thất. Trong trường hợp tổn thất
toàn bộ, mà không thể xác định được vì nguyên nhân khách quan, thì giá trị bảo
hiểm của tàu biển là tổng giá trị thực tế của tàu biển cùng chủng loại có đặc
điểm tương tự tại nơi đóng tàu hoặc nơi người khai thác, quản lý tàu biển có
trụ sở vào thời điểm xảy ra tổn thất”.
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn